PHƯỚC MÔN QUẬN CÔNG NGUYỄN HỮU BÀI – NGƯỜI MANG TÂM HUYẾT CANH TÂN NHÀ MẸ, DẪN LỐI ĐƯA NGƯỜI VỀ VỚI MẸ.
(Trích: Tập sách Trung Tâm Thánh Mẫu Toàn Quốc La Vang – Chương 6 – Phần 1 do Trần Quang Chu biên soạn)
Cụ Nguyễn Hữu Bài sinh ngày 28.09.1863, tại làng Cao Xá, tỉnh Quảng Trị. Cao tổ của cụ, dòng dõi danh tướng Nguyễn Hữu Cảnh, người làng Mỹ Hương, tỉnh Quảng Bình. Thân sinh cụ Bài là cụ Nguyễn Hữu Các, cháu gọi Thánh Tử đạo Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh (Năm) bằng chú ruột.
Cụ Bài xuất thân là chủng sinh Chủng viện An Ninh – Quảng Trị, rồi Pénang – Mã Lai, nhưng không có ơn gọi. Cụ vào đời với chức thừa phái Thương Bạc. Dần dần nhờ tài năng, uy tín và lòng chính trực cụ được thăng đến Thượng thư Bộ Lại. Đường hoạn lộ của cụ trải qua 50 năm dưới mười triều vua, khi thăng khi trầm nhưng mọi chuyện đều tiền hung hậu kiết. Theo cụ, tất cả là nhờ ơn Đức Mẹ La Vang. Để tỏ lòng biết ơn, cụ nhờ Cha sở Cổ Vưu sắm một cỗ kiệu sơn son thếp vàng dâng kính tạ ơn Mẹ, dùng vào các cuộc rước kiệu.
Không có kỳ Hành hương lớn nhỏ nào mà không có mặt cụ. Cụ đóng góp nhân lực, vật lực tối đa cho việc tổ chức rồi lặng lẽ đến với Mẹ như một người con thảo bình thường, một khách hành hương trong ngàn vạn khách hành hương khác, tin yêu và khiêm tốn.
Bên cạnh đó là tâm huyết canh cánh của cụ muốn La Vang độc lập về hành chánh để việc mở mang được thuận lợi hơn. Tâm nguyện chính đáng này dù đời cụ chưa thể thực hiện, ngoại trừ những cống hiến lớn lao cho việc hoàn thành Đền thờ Đức Mẹ La Vang năm 1928(1), song hẳn trên Quê Trời cụ đã mãn nguyện khi nhìn thấy các thế hệ hậu duệ đang từng bước thi hành lời khấn hứa kiến thiết La Vang, mở mang quê Mẹ.
Không những năng đến với Mẹ, cụ còn đưa người khác đến với Mẹ, hễ có dịp. Câu chuyện vua Khải Định là một trường hợp điển hình. Một vị vua từ nhỏ đã quy y Phật pháp thế mà vẫn bị cụ thuyết phục, ít ra hai lần sắm sửa lễ vật phụng khấn và tạ ơn Đức Mẹ La Vang.
Trước đó là trường hợp người họa sĩ tài hoa ngoại giáo Nguyễn Khắc Nhân: “Năm 1906, Đức Thành Thái bị truất ngôi, cụ Nguyễn Khắc Nhân, Hàn Lâm viện Biên tu tòng sự ở Bộ Công, buồn tình cáo lão về quê nuôi mẹ già. Cụ bà Tôn Nữ Thị Quyên và ba con Phi Hổ, Phi Long, Phi Hùng ở lại Huế. Về Hà Nội ít lâu, tình lưu luyến vợ con lại đưa quan Biên về kinh. Cụ bị tình nghi là mưu đồ chống Pháp nên bị 18 tháng tù quốc sự phạm, lại bị đày ra Quảng Trị. Ở đây cụ gặp Quận công Nguyễn Hữu Bài là bạn đồng chí… Trong cuộc đào viên kết nghĩa này, tài ba của cụ Nguyễn Khắc Nhân lại bừng sáng lên, nhất là trong lãnh vực thi ca và hội họa về tôn giáo… Nhiều họa phẩm như Thánh Gia Thất, Thánh Đường La Vang vẫn còn lưu lại hậu thế”.
“Mà hẳn thật, từ ngày thầy này vẽ bức tượng ấy đến nay, qua một năm, thì Đức Mẹ đã xuống ơn mà bồi công lao khó nhọc, mà Đức Mẹ ban một ơn trọng, chẳng phải ơn thường, là ban cho thầy ấy đặng trở lại làm con cái Đức Chúa Trời”. Ngày chịu phép Rửa tội, người bọ đỡ đầu không ai khác hơn chính là cụ Nguyễn Hữu Bài.
Công trình Ngũ Phước một thời được tiếng của cụ, trong đó Phước Môn nằm cạnh La Vang, được lập ra không ngoài mục đích để giáo dân được gần Mẹ, nương cậy Mẹ, phụng tự Mẹ. Phước Môn trước đây trực thuộc Giáo xứ La Vang, nay là một đơn vị Giáo xứ.
Những giây phút cuối đời, khi xe Hồng thập tự đưa cụ từ Phước Môn vào Bệnh viện Huế chữa chạy, cụ cũng bảo ghé La Vang viếng Mẹ, phó thác việc sinh tử trong tay Mẹ.
Cụ qua đời ngày 28.07.1935 tại tư thất ở Bến Ngự – Huế, hưởng thọ 73 tuổi. Đức Cha Đôminicô Hồ Ngọc Cẩn chủ lễ quy lăng đưa linh cữu cụ về an táng tại quê nhà Phước Môn, ở đó trên ngọn đồi thông vi vu, trăng thanh gió mát cụ ngó về La Vang đêm ngày hành hương bên Mẹ.
Lm. Giuse Nguyễn Văn Tiến (sưu tầm)
– – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – – –
(1) Ngày Chúa nhật 30.09.1928, Đức Cha Allys Lý đã long trọng cử hành lễ làm phép ba quả chuông La Vang. Đến dự lễ, có sự hiện diện của ông bà Thượng thư Nguyễn Hữu Bài, nhiều linh mục Tây, Nam và số đông quan khách Việt, Pháp ở Huế ra và từ Quảng Trị lên.
Đức Cha Allys Lý chủ sự nghi thức làm phép ba quả chuông. Năm vị được mời danh dự cầm ba quả chuông trong nghi thức làm phép:
+ Ông bà Thượng thư Nguyễn Hữu Bài cầm quả chuông thứ nhất.
+ Ông Batiste và bà Lemasson cầm quả chuông thứ hai.
+ Bà Bernard cầm quả chuông thứ ba.
Sau khi làm phép, ba quả chuông được một trục quay lớn đưa lên đỉnh tháp cao 25m, rồi cho đổ một hồi lâu. Tiếng chuông với ba nốt La, Fa, Sol tạo âm thanh rộn rã, hưng phấn kỳ diệu vang dội cả vùng rừng núi bao la, đến Quảng Trị cũng nghe tiếng chuông ngân.
Chuông vàng trên tháp trắng đã im tiếng hơn nửa thế kỷ nay, 1972-2025, kể từ cuộc chiến khốc liệt Mùa hè đỏ lửa 1972. Chẳng những thế, ba quả chuông lịch sử này cũng đã bị thất lạc trong chiến tranh. Tiếng chuông La Vang mà lâu nay giáo dân quen nghe chính là quả chuông cũ của Nhà thờ Phanxicô Huế tặng.