Chúa Nhật 24 Thường Niên Năm C – Lễ Suy Tôn Thánh Giá: Dụ Ngôn Về Ơn Cứu Độ
CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN NĂM C: LỄ SUY TÔN THÁNH GIÁ: GA 3,13-17
13Khi ấy, Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng: “Không ai đã lên trời, ngoại trừ Con Người, Đấng từ trời xuống. 14Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, 15để ai tin vào Người thì được sống muôn đời,
16Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. 17Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ.”
DỤ NGÔN VỀ ƠN CỨU ĐỘ
Lễ Suy tôn Thánh giá (cử hành ngày 14 tháng 9, hôm nay trùng vào Chúa nhật 24 Thường niên năm C) cho chúng ta nghe hai đoản văn tuy ngắn nhưng nổi tiếng và quan trọng. Đó là Thư thánh Phao-lô gởi tín hữu Phi-lip-phê 2,6-11 và Tin Mừng theo thánh Gio-an 3,13-17. Thiết tưởng nên tìm hiểu cả hai bài đọc để thấy vì sao lễ này được phụng vụ Giáo hội gọi là lễ “Suy tôn Thánh giá.”
1. Tự hạ nơi thập giá để được siêu tôn trên cõi trời.
Thư Phi-líp-phê 2,6-11 là một thánh thi danh tiếng, thuộc loại có vị trí nổi bật trong Tân Ước và các thư Phao-lô, một bản văn đã tạo nên cả một thư mục đồ sộ, chứng minh cho thấy nó phong phú vô cùng. Nét tương phản giữa “sự hạ mình” trong cái chết và “sự siêu tôn” trong vinh quang phục sinh cho phép chúng ta hiểu tại sao đoạn văn này của Phao-lô được chèn vào hôm nay: thập giá trong Gio-an là dấu chỉ của sự tôn vinh; cái chết trên thập giá, đối với Phao-lô, cũng là khởi đầu của sự siêu tôn vinh hiển. Đó là một cách diễn tả biến cố Vượt qua, khác với cách truyền thống là nói “sống lại”. Giờ đây, chúng ta sẽ cố gắng theo dõi bản văn của thánh Phao-lô trong những dữ kiện cốt lõi của nó, xem nó như “một viên ngọc quý đính vào Thư gửi tín hữu Phi-líp-phê” theo kiểu nói của một nhà chú giải.
Đức Ki-tô bước vào sân khấu với “bản tính thần linh” của Người, rạng ngời vinh quang. Tuy nhiên, Người không coi ưu phẩm tối cao này như một “kho báu đáng ghen tị” cần bảo vệ chặt chẽ. Thay vào đó, Người gần như để nó rơi xuống, tự tước bỏ nó như thể đấy là một chiếc áo choàng, để chọn con đường nghèo khó của nhân loại. Đây là cách mô tả sự nhập thể, được diễn đạt thông qua một động từ Hy-lạp mạnh mẽ, kenoun, ám chỉ việc Đức Kitô “tự hủy”, tự diệt cách tự do để trở nên con người khả tử. Thật vậy, bằng cách đảm nhận bản chất nô lệ, phẩm tính thể xác và ngoại diện khốn cùng ! Nghệ thuật của những thế kỷ Ki-tô giáo đầu tiên, khi tìm cách thể hiện hình ảnh Đức Kitô, đã bóp méo Người, chính vì trong Người tập trung sự hạ mình của việc nhập thể.
Và “tự hạ” là điểm đến của việc Đức Kitô xuống từ cõi trời của thần tính. Trên thực tế, mục tiêu của nó là cái chết, là ngã xuống đất, thể hiện qua việc đóng đinh thập tự. Khi nói rõ rằng cái chết của Đức Ki-tô là cái chết trên thập giá, khổ hình của những nô lệ, Phao-lô cho thấy số phận cay đắng mà Con Thiên Chúa đã muốn dành cho mình, để qua đó trở thành anh em với những kẻ hèn mạt nhất trên thế gian. “Thập giá là một cớ vấp ngã đối với người Do-thái và một sự điên rồ đối với dân ngoại” (1Cr 1,23). Nghịch lý Ki-tô giáo nằm ở việc Thiên Chúa từ bỏ vinh quang thần linh để chia sẻ trọn vẹn nỗi khốn khổ của tạo vật Người. Thật thế, trên thập giá, “Đức Ki-tô đã trở nên bị nguyền rủa vì chúng ta” (Gl 3,13), để gánh lấy tội lỗi của thế trần.
Sau khi đạt đến sự bỏ mình cùng tột, sự tự hiến trọn vẹn, sự vâng phục tuyệt đối, trở nên kẻ rốt cùng, phép lạ vĩ đại đã nổ ra cho Đức Giê-su. Chúa Cha hướng về Chúa Con nhập thể và “tôn vinh” Người. Và từ khoảnh khắc này, trên trục thẳng đứng của thập giá, một chuyển động đi lên bắt đầu, ngược với chuyển động hạ mình xuống. Đức Ki-tô trở về với cương vị vinh quang của “danh” Người, tức cương vị Kyrios, nghĩa là Đức Chúa, một thuật ngữ trong Kinh Thánh tiếng Hy-lạp chỉ thần danh không phát âm được, JHWH. Và toàn thể vũ trụ phủ phục tôn thờ vị Chúa của mình. Thật vậy, Thiên Chúa đã tuyên bố trong sách I-sai-a: “Ta lấy chính Ta mà thề: mọi người sẽ quỳ gối và mở miệng tuyên xưng” (45,23). Vâng, điều này giờ đây đã trở thành sự thật đối với Đức Ki-tô được tôn vinh đang lên trời, đạt đến sự viên mãn của thần tính Người, mà trước đây đã “bị hạ thấp” trong việc nhập thể.
Thập giá của Đức Ki-tô, do đó, là hiệu kỳ của sự chết và sự sống, của khiêm nhường và vinh quang, của đau khổ và hoan lạc, của nhân tính và thần tính. Cương vị của chúng ta, tạo vật khả vong và tội lỗi, từ khi được Đức Ki-tô đảm nhận, đã trải qua một sự biến đổi triệt để. Thập giá của Đức Ki-tô là sự tổng hợp của việc biến đổi này: sự nghèo khó của chúng ta đã được chia sẻ và giải thoát, tội lỗi của chúng ta đã được gánh chịu và xóa bỏ, nỗi thống khổ của chúng ta đã được chấp nhận và chữa lành, nhân tính của chúng ta đã được đảm nhận và cứu chuộc. A-đam đã thách thức Thiên Chúa, leo lên chóp đỉnh của lòng kiêu căng; Đức Ki-tô đã từ thiên đàng xuống để nắm tay chúng ta và dẫn chúng ta lên đấy, cùng với Người. Và vì thế, “chúng ta chớ hãnh diện về điều gì ngoài thập giá của Chúa chúng ta là Đức Giê-su Ki-tô; nhờ thập giá, thế gian đã bị đóng đinh vào thập giá đối với chúng ta và chúng ta đối với thế gian” (Gl 6,14).
2- Giương cao trên thập giá để kéo ơn cứu độ xuống trần gian.
Có một câu nói đầy ẩn ý của văn sĩ kiêm phi công người Pháp Antoine de Saint-Exupéry, có thể xem như lối viết tắt cho cuộc cử hành hôm nay: “Lạy Chúa, xin cho con gắn liền với cây mà con thuộc về: nếu con ở một mình thì thật vô nghĩa.” Cây nói trong lời cầu khẩn này có thể phiên thành “cây thập tự”, một cụm từ được sử dụng trong truyền thống Kitô giáo để chỉ thánh giá của Chúa Kitô. Lịch sử nhân loại dường như bị treo lơ lửng giữa hai cây: một bên là cây biết thiện ác trong Vườn Địa Đàng, dưới nó hoàn tất bi kịch của tội lỗi; bên kia là cây Đồi Can-vê, thập giá của Đức Giê-su, dưới nó mở ra thiên hùng sử của ơn cứu chuộc. Đấy là điều vừa được tổng hợp trong lời tiền tụng hôm nay: “Cha dùng cây thập giá để ban ơn cứu độ cho loài người. Thật vậy, xưa vì cây trái cấm loài người chúng con phải tử vong, nay nhờ cây thập giá lại được sống muôn đời; và ma quỷ xưa chiến thắng nhờ cây trái cấm, nay thảm bại vì cây thập giá của Đức Ki-tô.”
Vậy thì chúng ta hãy cố gắng tách mình ra khỏi cây bi thảm đầu tiên đó, để “liên kết” với cây cứu độ, bởi lẽ “ở một mình thì thật vô nghĩa”. Thiếu gốc rễ đó, sẽ chẳng có thức ăn mà sống được. Giờ đây, chúng ta sẽ tập trung suy gẫm về những động từ mà thánh Gio-an, nơi đoạn Tin Mừng vừa nghe hôm nay trong phụng vụ, đã gắn với cây thập giá của Đức Ki-tô, nơi Con Người bị treo lên. Hãy cứ để chúng tuôn trào, bởi lẽ chính từ thập giá đau thương và vinh quang của Đức Ki-tô mà chúng có được ý nghĩa trọn vẹn.
Động từ đầu tiên là tin (“ai tin…”, được lặp lại hai lần). Để nắm bắt ý nghĩa của thập giá, tự bản thân là một cực hình khủng khiếp và là dấu hiệu của sự thất bại, cần được đức tin mạc khải nó như một dấu chỉ của vinh quang, như ngai vàng chiến thắng sự dữ.
Hãy chuyển sang động từ thứ hai, yêu (“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi…”). Nhờ đức tin, chúng ta khám phá ra rằng thập giá là dấu chỉ của tình yêu thần linh: nó bày tỏ lòng mong muốn của Thiên Chúa không bỏ rơi con người trong đau khổ và sự điên rồ tội lỗi của họ. Tình yêu của Chúa Cha tỏ lộ qua món quà là Chúa Con: và như thế xuất hiện động từ thứ ba, ban (“… ban Con Một”), song hành với động từ thứ tư, sai (“Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian”). Do đó, việc Nhập thể biểu hiện như một món quà thần linh và một sứ mệnh cứu độ có mục tiêu là hy lễ chuộc tội của Chúa Con. Đức Ki-tô đến giữa chúng ta với một nhiệm vụ rất rõ ràng. Đây chính là điều xác định một loạt động từ khác.
Đó là lên án, động từ thứ năm, nhưng được trình bày theo cách phủ định (“không phải để lên án thế gian”). Thiên Chúa đâu ưa phán xét cái xấu của nhân loại; Người chẳng phải là một hoàng đế nghiệt ngã muốn áp dụng công lý cách nghiêm khắc. Vậy mong ước đích thực của Thiên Chúa là gì ? Điều này được diễn tả trong động từ thứ sáu, cứu độ (“để thế gian nhờ Con của Người mà được cứu độ”), một thành ngữ sáng ngời về việc Thiên Chúa cúi xuống trên tạo vật mỏng manh và tội lỗi của Người để nâng nó lên tới chính mình, lên tới vinh quang và ánh sáng. Như thế, một chân trời mới mở ra cho tạo vật, được xác định kiểu tiêu cực lẫn tích cực bởi hai động từ khác. Đó là khỏi phải chết (“để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết”), kiểu nói “tiêu cực” về số phận của chúng ta: chúng ta sẽ không còn bị buộc phải rơi xuống hỏa ngục, vắng bóng ánh sáng, sự gần gũi của Thiên Chúa và hy vọng.
Đối lại động từ thứ bảy tối tăm ấy là một động từ tích cực, đóng dấu toàn bộ câu chuyện về thập giá của Chúa Kitô: đó là được sống muôn đời, lặp lại hai lần. Theo ngôn ngữ của Gio-an, “được sống muôn đời” chả phải là bất tử về mặt tinh thần cách mờ mờ ảo ảo mang hơi hướng Platon, mà là tham dự vào chính sự sống của Thiên Chúa. Đó không phải là sự sống còn như bóng ma bên kia cái chết (theo quan niệm dân ngoại), mà là sự hiệp thông tràn đầy và vĩnh viễn với Chúa. Thập giá của Đức Ki-tô mô tả theo cách ấy toàn bộ dụ ngôn về ơn cứu rỗi. Nó hiện thân cho việc Thiên Chúa bước vào lịch sử, thậm chí đến tận ranh giới khủng khiếp là sự chết và tội lỗi. Nhưng để phá vỡ sự quyến rũ sai trái của nó và đưa chúng ta lên tới vô biên, sự sống và ánh sáng. Thập giá “được giương cao”, nghĩa là được đặt ở trung tâm lịch sử và vươn lên trời cao, là dấu chỉ vĩ đại được dựng lên giữa các dân tộc để mọi người có thể tin tưởng, hy vọng và được cứu độ. Đức Giê-su sẽ phán: “Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12:32).
Viết theo Gianfranco Ravasi, Secondo le Scritture. Doppio commento alle letture della dominica. Anno C. Piemme. Pagine 389-392
BÀI TIN MỪNG 3 DỤ NGÔN: LC 15,1-32
CẦU CHO CHÚNG CON LÀ KẺ CÓ TỘI
Đây là lần thứ hai trong năm, chúng ta nghe Đức Giê-su kể dụ ngôn tuyệt vời về tình yêu hoang phí của Người Cha đối với hai con trai của mình, những tội nhân khốn khổ. Hoang phí tình yêu vì chẳng có đứa nào đáng ông yêu cả. Chúng ta đã suy niệm dụ ngôn đó trong Chúa nhật thứ 4 mùa Chay. Chúng ta nghe lại nó trong tháng 9 đây, đầu niên học… nhưng lần này, chúng ta may mắn nhận được toàn bộ chương 15 nổi tiếng của thánh Lu-ca. Nhiều hơn và tốt hơn bất cứ chú giải nào, Lời Thiên Chúa “xuyên thấu những chỗ phân cách, sống động và sắc bén hơn mọi gươm hai lưỡi” (x. Hr 4,12). Hãy để lời đó thể hiện hiệu quả thần thánh của mình: Đức Giê-su là một nhà giảng thuyết, nhà sư phạm đáng phục… lặp lại 3 lần cùng một chân lý dưới nhiều hình ảnh khác nhau… ba “dụ ngôn về lòng thương xót”, chấm dứt với cùng một điệp khúc: “Xin chung vui với tôi, vì tôi đã tìm được cái tôi đã mất”… điệp khúc được mở rộng và nói rõ trong dụ ngôn thứ ba qua những lời lặp lại hai lần: “nó đã chết mà nay lại sống” (cc. 24.32). Nó như sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn chương !
Một con chiên “bị mất” và “tìm được”… niềm vui của người mục tử.
Một quan tiền “bị mất” và “tìm được”… niềm vui của người phụ nữ.
Một đứa con “bị mất”, “chết đi”… và “tìm được”, “lại sống”… niềm vui của người cha già.
Ba dụ ngôn cũng có một đóng góp mới mẻ và cơ bản, đó là thiết lập mối liên hệ giữa cách hành xử của Đức Giê-su với thái độ của Thiên Chúa.
1- Những khái niệm sai lầm về tội lỗi.
“Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư xầm xì với nhau: Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng” (c. 2; x. 5,29-32). Chúng ta luôn như những kẻ đương thời đó của Đức Giê-su, có một quan niệm sai lầm về tội lỗi và về Thiên Chúa. Thuở ấy, người ta tưởng tượng rằng Thiên Chúa, bằng sự Công chính và Thánh thiện của mình, luôn kết án và đè bẹp những tội nhân khốn khổ. Ngày nay, người ta lại có khuynh hướng loại bỏ cách đơn thuần chính thực tại tội lỗi. Đức Giáo hoàng Piô XII từng cảnh báo: “Tội lớn nhất hiện nay, đó là việc con người đánh mất cảm thức về tội” (Diễn văn ngày 26-10-1946. Documentation Catholique, số 43, cột 1380).
Vâng, đối với nhiều người thời đại chúng ta -và cách vô thức, chúng ta cũng thấm nhiễm não trạng hiện thời ấy- sự ác như bị hòa tan, như thể nó chẳng hiện hữu : hãy giải thoát mình khỏi những nguyên tắc và những cấm kỵ… tôi là chủ của lương tâm mình… không Chúa, không chủ, tôi có luân lý riêng của tôi… Nếu điều ấy là đúng, thì ba dụ ngôn của chúng ta hôm nay ra vô ích, vô nghĩa. Nếu tội lỗi không còn tồn tại, hiển nhiên chẳng cần lòng thương xót nữa. Nhưng lúc đó, cũng chớ nên tự hỏi mình : “Tại sao có sự dữ trong trần gian dưới vô vàn hình thức ? Tại sao có bạo lực, bất công, áp bức, kỳ thị ? Tại sao có chuyện diệt chủng, nạn buôn người, kế hoạch tàn sát thai nhi ?”
“Không có sự dữ”… là một câu đáp giả tạo, vì nó loại trừ câu hỏi ! Và trong những xã hội tự cho là được giải phóng như thế, người ta thấy sự tăng nhanh quá mức những kẻ tâm thần tha hóa, nô lệ các bản năng, thần kinh mất quân bình. Các thông tin thường nhật mang đến cho chúng ta cả một lô về họ, mà vì cứ lặp đi lặp lại nên trở thành bình thường. Không ! Người ta không thể loại bỏ câu hỏi. Nó tự đặt lại chính mình bằng các sự kiện: “Tại sao con người có khả năng làm chuyện ác ? Tại sao có những kẻ hãnh diện vì đẩy tha nhân hàng loạt vào cảnh nô lệ hay chốn tử vong ?”
Chẳng đưa ra lý thuyết trừu tượng, Đức Giê-su nói đến điều ác, điều dữ… vốn hiện hữu thực sự, đối với người mục tử “mất” con chiên, đối với bà nội trợ “mất” đồng bạc, đối với ông cha “mất” quý tử. Qua đó, Người nhắc nhở chúng ta luôn ý thức mình là tội nhân trước mặt Thiên Chúa, bị mất đối với Người, và do đó luôn cần hoán cải, cần Người thương xót.
2- Khái niệm đích thực về tội lỗi và lòng thương xót.
Phải nhận thấy rằng Đức Giê-su không bao giờ nói đến tội lỗi mà chẳng đồng thời nói về lòng thương xót. Ví dụ câu chuyện người phụ nữ tại nhà ông Pha-ri-sêu: được tha nhiều nên đã yêu nhiều (Lc 7,36-50); chuyện tay thầu thuế Da-kêu ác nhơn thất đức hưởng ơn cứu độ (Lc 19,1-10)… Con chiên, đồng bạc, cậu trai “bị mất”… thì chỉ bị mất để được tìm thấy, và đem lại niềm vui cho kẻ tìm được.
Hãy lấy một ví dụ đơn giản, gần giống ba dụ ngôn.
Một cô bé phạm tội bất tuân. Cô biết mình đã làm điều quấy. Cô buồn bã, không thoải mái được. Bỗng nhiên bà mẹ xuất hiện, đưa tay ôm lấy cô và kéo vào lòng. Chính lúc đó, khi cảm thấy được mẹ yêu, lập tức cô nhìn rõ cái sai mình đã phạm: cô bèn hối tiếc vì đã không vâng lời và xưng thú với mẹ. Cô buồn, nhưng không như lúc nãy khi cô ở một mình với tội bất tuân. Cô buồn, nhưng đồng thời thấy hạnh phúc, vì biết mình vẫn được yêu trong chính tội không vâng lời. Hối tiếc tội lỗi, nhận ra tội lỗi, xưng thú tội lỗi… cách nào đó là nhìn thấy nó khi đang “ở trong đôi tay Thiên Chúa”, như cô bé trong đôi tay mẹ.
Trong dụ ngôn đứa con “lạc mất”, chỉ khi cha anh ta “chạy ra ôm cổ và hôn anh thắm thiết”, anh ta mới có thể thốt lên thật lòng: “Thưa cha, con thật đắc tội…”. Câu nói nghĩ sẵn bên chuồng heo trước đó có thể chỉ là mánh lới để làm cha mủi lòng, hầu ông bớt phẫn nộ khi anh ta lê thân tàn ma dại trở về để có cái ăn.
Khái niệm đích thực về tội lỗi trước hết không ở phía các cấm kỵ, cấm đoán (chớ… chớ… ), nhưng ở phía tình yêu: tội lỗi, đó là “cái gây đau khổ cho vị Thiên Chúa thương yêu ta vô cùng.” Người mục tử đau khổ vì con chiên đi lạc. Người đàn bà đau khổ vì đồng bạc đánh rơi. Ông cha đau khổ vì đứa con bỏ nhà.
Và khái niệm đích thực về hoán cải chẳng phải là “nỗ lực để trở nên con người lương thiện”… Sự hoán cải trước hết không ở phía tâm lý nhưng ở phía thần học: hoán cải, đó là “đem lại niềm vui cho Thiên Chúa” -trên chốn trời cao, giữa triều thần của Người- “Hãy chung vui với Ta”, Thiên Chúa nói.
Chúng ta có trao tặng niềm vui ấy cho vị Thiên Chúa yêu thương chúng ta không ?
Chúng ta có năng thốt lên lời van xin tuyệt diệu khiến Đức Mẹ nguyện cầu cho chúng ta trên trời chăng: “Mẹ Maria ơi, xin cầu cho chúng con là kẻ có tội” ?
“Hãy chung vui với Ta”, Thiên Chúa nói. Hẳn bạn đã lưu ý: dụ ngôn người cha hoang phí tình yêu không có câu kết luận (Lc 15,32). Ta chẳng biết anh con cả có vào dự tiệc mừng với cha và em không ! Câu trả lời nằm nơi độc giả là chúng ta đấy !
Đâu là niềm vui của Thiên Chúa mà Người muốn chúng ta cùng chia sẻ ? Đó là niềm vui tha thứ mà Người ban cho các tội nhân vốn là chúng ta hết thảy. Chúng ta có cho Thiên Chúa niềm vui ấy bằng cách đến xưng thú với Người các tội ta phạm ? Hãy quan niệm các cuộc thống hối của tôi như một niềm vui mà Thiên Chúa muốn tôi chia sẻ.
Lm. Phêrô Phan Văn Lợi